Nghề hạ bạc

0
513

ThS NGUYỄN VĂN ĐÔNG

Nghề hạ bạc vùng Hạ Cần Đước
(Trích hồi ký Chuyện ngày xưa)
Cần Đước là vùng sông nước được bao bọc bởi hai con sông là Rạch Cát và Vàm Cỏ Đông, cùng chảy về hướng đông và nhập vào sông Soài Rạp chảy ra biển Đông. Từ sông Rạch Cát và sông Vàm Cỏ lại có nhiều nhánh sông rạch nhỏ ăn sâu vào nội đồng chằng chịch và dân cư thường sống bám theo các ngọn rạch hình thành nên những thôn xóm tạo thành đặc điểm cư trú của dân cư vùng Hạ. Đây là vùng sinh thái nước lợ, mùa mưa nước ngọt, mùa khô nước mặn và cá tôm cũng khá phong phú.
Chiều chiều quạ nói với diều
Ngã ba Cần Đước có nhiều cá tôm!.


Tôm thì thường có tôm bạc, tôm đất, tôm càng, tôm tít. Cá thì có cá bóng kèo, bóng xệ, bóng cát, bóng dừa, cá đối, cá ngát, cá dứa, cá chốt, cá hủn hỉnh, cá mặt quỷ, cá chình, cá sủ. Ngoài ra còn có cua, còng, rạm. Ngon nhất là cua gạch son thường được để dành dùng để làm quà tặng hay làm món chả cua trong những đám giỗ.
Từ đặc điểm là vùng sông nước này nên ngoài làm ruộng thì người dân Cần Đước còn làm thêm những nghề đánh bắt thủy sản ngay trên sông rạch bên nhà mình mà dân gian thường gọi là nghề hạ bạc, nghề “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”.

Ở dưới sông ngoài nghề đóng đáy còn có các hình thức đánh bắt khác như đăng, chài, kéo lưới, ghe cần chong, ghe trễ…Gắn với những nghề này là những địa danh còn tồn tại đến ngày nay như Xóm trễ ở Phước Đông, Bến trễ ở Tân Ân; Xóm chài ở khu 6 thị trấn Cần Đước. Riêng xóm Đáy thì có ở nhiều nơi như ở khu 2 thị trấn Cần Đước, ở Long Hựu Tây, Phước Tuy, Tân Trạch, Long Sơn. Riêng nghề đăng thì không thành xóm nên không thấy có địa danh Xóm đăng.
Chiều chiều ông Nữ đi đăng
Cá tôm nhảy hết nhăn răng cười hoài !

Đóng đáy thường có tôm bạc, tôm đất, cua, cá kèo. Còn chài, đăng thì thường có cá đối, tôm càng, cá bóng cát…Những loại nầy thì ít khi vào đáy. Kéo lưới thì thường có cá bóng xệ…

Ngoài ra còn có các dạng đánh bắt thủy sản khác như cấm chà dọc bờ sông để dụ tôm cá vào ở và khoảng mươi ngày thì bao lưới bắt một lần, thường thì có cá lóc và tôm càng. Hoặc là các bà đi xúc bằng vợt ở trong các con rạch khi nước đã ròng sát. Đi xúc thì cũng kiếm được thức ăn cho gia đình nhưng sợ nhất là thường gặp cá mặt quỷ, nó mà đâm phải thì ôi thôi chịu đời nào thấu, đau nhức nóng sốt phải mấy ngày. Nhưng bù lại thịt cá mặt quỷ thì ăn khá ngon.


Rồi còn có kiểu đấp đập ngăn các con rạch nhỏ, hàng tháng tháo đập một lần để bắt tôm cá. Ai khó khăn thì nửa tháng tháo một lần. Thường có rất nhiều cá đối to, con nào con nấy to cở bắp tay thấy mà mê!. Vui nhất đối với trẻ con là đi bắt hôi khi tháo đập. Người của chủ đập bắt đàng trước, mình theo bắt đàng sau. Con cá nào vọt ra sau thì mình có quyền bắt. Có khi thấy cá mê quá nên nhảy bắt hổn đàng trước thì bị con chủ đập chọi đất, mắng chửi om xòm. Thường ở trong xóm có những chị bắt cá rất giỏi và chuyên đi bắt mướn cho chủ đập. Nhiều khi thấy đám trẻ bắt hôi chắc cũng tội nghiệp nên thỉnh thoảng họ cũng giả vờ bắt hụt cho cá chạy ra đàng sau cho đám trẻ bắt hôi mà trong số đó cũng là con cháu của họ. Có lẽ từ đây mà người ta có từ “hôi của”.

Đóng đáy thì khi gặp những con nước rông lớn, cua nhèm (của nhỏ) chạy đáy rất nhiều phải đổ xuống khoang ghe, còn con nào bò trên sàn thì hất luôn xuống sông vì sợ không khéo sẽ bị cua kẹp rất đau. Bây giờ ra chợ thì loại nầy cũng phải trả lắm tiền. Mắm tôm chua cũng là món đặc sản thường được ăn với bún tươi, thịt ba rọi luộc, rau sống. Những bữa đóng đáy nước ngày về trưa quá tôm bán không kịp nên bà nội tôi thường lấy tôm làm mắm, mà phải là tôm đất. Những hủ mắm tôm phơi nắng đỏ ao trông rất hấp dẫn. Món cá chốt nấu canh chua với lá me, cá chình nấu cà ry ăn cũng rất hấp dẫn. Đó là những món ăn từ đặc sản sông nước miền Hạ.

Ghe cần chong

Còn về hệ thực vật vùng nước lợ ở ven sông thì có cây bần, cây mắm, cây đước, mái dầm, cốc kèn, ô rô, lá dừa nước. Lá dừa nước được dùng phổ biến để lợp nhà. Cà bắp là lá dừa nước non được dùng để thắc gào tát nước ghe rất tiện. Trái bần ăn cũng rất ngon, thường ăn bần sống với mắm ruốc, mắm sặc sống. Có hai loại bần là bần ổi và bần rạch. Cây bần ổi thì ít thấy hơn, thường mọc ở gần nhà; còn bần rạch thì rất nhiều, mọc cặp theo bờ rạch vì vậy nên gọi là bần rạch. Món nầy nhậu với rượu đế cũng rất đúng điệu. Con cá dứa rất thích ăn trái bần rạch chín rụng xuống sông. Bột bần, sản phẩm từ trái bần, giờ đã có mặt ở siêu thị, dùng để nấu canh chua và có hương vị cũng rất đặc trưng. Thường nghe người ta hát:
Chèo ghe đi hái búp bần
Thấy hai ông địa chầng vầng chun ra
…Chèo ghe đi hái búp bần
Chèo lại gần gần bóp v. chị sui!

Chim thì có cò, còng cọc, dòng dọc, chài chài, chim cu…Ở trong ngọn rạch Su xã Phước Đông từng có một vườn cò rất lớn của nhà ông Tám Hối và cũng trở thành địa danh xóm Vườn cò, từng là một căn cứ cách mạng nổi tiếng. Chim dòng dọc thường thích làm tổ trên cây bần và bao giờ cũng có một tổ ong sắt gần bên. Leo lên bắt chim mà không quan sát là bị ong đánh ngay. Không biết là chim làm tổ ngẩu nhiên cạnh ổ ong hay là do chim khôn ngoan mà biết lựa nơi có ong để làm tổ!. Trong các loại tổ chim có lẽ tổ chim dòng dọc là đẹp nhất, có tổ cho con trống, con mái riêng. Còn các giống cò, cu thì làm tổ đơn giản hơn, có vẻ lười biếng làm cho có lệ để có chỗ đẻ trứng mà thôi.


Ở Cần Đước sau 1975, người ta đấp nhiều đập ngăn sông để giữ nước ngọt, từ đó hệ sinh thái bị thay đổi hoàn toàn và đã làm biến mất toàn bộ hệ tôm cá và cây cối vùng nước lợ này. Trẻ con sau nầy lớn lên sẽ không biết cây mắm, cây bần là gì. Hồi nhỏ, trẻ con thường chơi trò lấy bông mắm quăng vào tóc nhau, nhất là tóc đám con gái, nó bám chặc gở không ra…

ThS Nguyễn Văn Đông

Bài trướcNguyễn An Ninh với Cần Đước
Bài tiếp theoNghề hạ bạc (tiếp theo)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây